Giai đoạn hậu Lê, Trịnh - Nguyễn phân tranh, đã phân chia đất nước
thành hai, cảnh
"huynh đệ tương tàn",
nội chiến liên miên gần hai
thế kỷ. Cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn, do ba anh em Nguyễn Huệ,
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, người nông dân áo vải lãnh đạo thắng lợi,
thống nhất đất nước, xóa bỏ 3 tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Nguyễn.
Mậu Thân 1788, Nguyễn Huệ
xuất quân ra Bắc Hà, đại phá 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, rồi lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Trung. Phía nam Nghĩa quân
Tây Sơn đánh tan 2 vạn quân Xiêm tại Rạch Cầm - Xoài Mút, đất nước vắng bóng quân thù.
Nguyễn Ánh dòng dõi Chúa Nguyễn, ở phía Nam lánh nạn sang Xiêm (Thái Lan), nuôi hận trả
thù lấy lại
danh dự chín đời Chúa Nguyễn. Khi Nguyễn
Huệ qua đời, chính quyền Tây Sơn có dấu hiệu suy thoái, Nguyễn Ánh đã đưa quân đánh chiếm lại
Gia Định, Bình Định, Phú Xuân, Nghệ An, rồi tiến ra Thăng
Long (Hà Nội ngày
nay). Đánh đổ hoàn toàn triều đại Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi vua, hiệu là Gia Long, lập ra Nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân (Huế ngày nay).
Nuôi hận báo thù, lấy lại danh vọng
cho chín đời chúa Nguyễn, Gia Long lập
kế hoạch trả thù nghĩa
quân Tây Sơn. Cuộc truy lùng, tàn sát tận gốc gia tộc Tây Sơn và những người tham gia nghĩa quân Tây Sơn. Số người còn sống sót trong nghĩa quân và trong gia tộc ba anh em Tây Sơn, phải phiêu bạt khắp mọi nơi
lánh nạn, họ
phải đổi họ hoặc đổi tên
đệm của dòng họ.
Nguyễn Công Chất là tôn thất của triều Tây Sơn đã lánh nạn tại hang núi Minh Xuân huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái ngày nay, con cháu đã đổi từ
Nguyễn Công, sang Nguyễn Đình. Nguyễn Công Chất sinh được hai người con trai
là Nguyễn Đình Giang và Nguyễn Đình Dong. Nguyễn Đình Dong sinh được Nguyễn Đình Thu, tính từ cụ Tổ của
Nguyễn Huệ, thì Nguyễn Huệ đời
thứ IV, Nguyễn Đình Thu
đời thứ VII.
Khi nguôi phai trả hận,
Nhà Nguyễn đã hạ chiếu, dụ các hào mục Bắc Hà, chiêu hồi người tài giỏi. Nguyễn Đình Thu được bổ nhiệm và cử sang làm Tri châu Văn Bàn. Ông lấy vợ
người dân tộc Tày tại bản Ken và đưa gia đình lên ngụ tại
bản Ken thuộc xã Chiềng Ken.
Ảnh hưởng của văn hóa thờ Mẫu lúc bấy giờ, Ông đã cho xây dựng ngôi đền ở núi Tác Tầng thuộc bản Đồng Vệ xã Chiềng Ken, để thờ Thánh
Mẫu Thượng Ngàn, vị Thánh trong ba vị
Thánh Mẫu, thuộc Đạo Mẫu
là đạo nội
địa duy nhất của Việt Nam. Thánh Mẫu Thượng Ngàn cai quản 81cửa rừng trong cõi Nam Giao, ngự tại rừng xanh. Tương truyền qua các thời kỳ
chống giặc ngoại xâm, Thánh Mẫu đã dùng quyền năng của mình, linh ứng phù
hộ, độ trì giúp các nghĩa quân, chiến đấu chống giặc ngoại xâm, đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, giữ toàn vẹn lãnh thổ linh thiêng đất Việt và đảm bảo
cuộc sống no ấm cho dân lành.
Sau này Nguyễn Đình Long con trai Nguyễn Đình Thu được triều đình cử làm Tri châu Văn Bàn kế tục
cha. Ông Nguyễn Đình Long đã nhờ thầy địa lý chọn địa điểm di
chuyển đến vị trí hiện nay.
Ở đây vị thế
cao ráo, dựa lưng
vào dải núi lớn, hướng nhìn xuống con suối Nhù, nước trong xanh,
xung quanh dân cư sống đông đúc, có cánh đồng thoáng. Với cương vị Tri
châu, Ông Nguyễn Đình Long đã dựa vào sự linh ứng của Thánh Mẫu, để vận động tổ
chức nhân dân khai hoang
ruộng, phát triển canh tác lúa nước. Từ đó nhân dân tập trung sản
xuất lúa nước, sống
quần cư theo từng bản, gần các cánh đồng để bảo vệ đồng
ruộng, thành quả lao
động. Hằng năm vào ngày
thìn tháng giêng, ông tổ chức nhân dân, làm lễ khấn cầu trời
đất cho mưa thuận gió
hòa, mùa màng tốt tươi. Từ đó, thành nếp hằng năm, tất cả các vùng trong châu Văn Bàn, đều mang
lễ đến để tổ chức, lễ hội được tổ chức và ngày thìn đầu năm
gọi là lễ hội
Lồng Tồng. Lễ được tổ chức tại Đền Ken, khấn xin linh ứng của Thánh Mẫu ( Mẹ rừng, Mẹ
lúa), sau đó rước lễ tổ chức tại khu
ruộng gần Đền Ken, nay là khu Na Lông Tông (ruộng để làm lễ
hội xuống đồng). Đời sống được ấm no, ổn định, nhân dân hăng hái làm ruộng canh
tác xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
Vào cuối thế kỷ 19, tàn quân Cờ Vàng Trung Quốc, sau khi thất
bại trong cuộc chiến chống lại triều đình nhà Thanh, chúng đã trở thành phỉ tràn sang nước ta, vào cướp phá Văn Bàn, Than Uyên. Ông Nguyễn Đình Long đã tập hợp quân, phối hợp cùng Cầm Văn Hánh thủ lĩnh người Thái ở Than Uyên, hiệp đồng tổ chức
trận đánh đuổi quân Cờ Vàng, ra khỏi khu vực Văn Bàn, Than Uyên. Trong trận đó Ông Nguyễn Đình Long đã hy sinh. Để tưởng
nhớ công ơn của Ông Nguyễn Đình Long, cùng quân sỹ đã hy sinh, chống quân phỉ Trung Quốc xâm lược, nhân dân đã đưa bài vị ông vào đền thờ, nhân dân tôn sùng gọi ông là Hoàng Long.
Từ đó đến nay Đền Ken
thờ Mẫu theo tín ngưỡng cổ
truyền và có ban thờ Ông Hoàng Long. Hằng năm cứ đến ngày mùng Bảy tháng Giêng, Đền Ken tổ chức
lễ hội theo truyền thống, nhân dân trong vùng, khách thập phương đến trẩy hội và cầu phúc đầu năm.
Cuối thế kỷ XX, thực dân Pháp đô hộ
Văn Bàn, chúng đã chọn khu vực Đền Ken xây dựng đồn, đồn Ken là một trong 5 đồn
lớn của thực dân Pháp tại huyện Văn Bàn.
Di tích lịch sử - văn hóa Đền Ken đã
được Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh. Công ty Phúc Khánh và nhân dân trong
vùng, khách thập phương cung tiến xây dựng Đền Ken ngày một khang trang.
Trên khuôn viên
Đền hiện nay, chúng ta thực thị thấy quang cảnh của Đền có hệ thống cây sui cổ
thụ và hệ thống cây lim xanh, có tuổi thọ hàng trăm năm tạo cho khu Đền càng thêm
thanh tịnh. Sự tồn tại cả một đồi cây cổ thụ, có tuổi đời hàng trăm năm tại khuôn viên Đền, là
bằng chứng của truyền thống tôn sư trọng đạo của nhân dân trong vùng, sự huyền
bí, linh thiêng của vùng đất tụ tại Đền Ken. Hệ thống cây cổ thụ là sự kết tụ,
lưu truyền kho tàng văn hóa từ đời này sang đới khác, cho hàng ngàn thế hệ mai
sau. Nay cụm cây Sui tại
Đền Ken đã được Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam có Quyết định cấp bằng công nhận "Cây di sản Việt
Nam" năm 2017.
Tạ
Minh Khuê
Trưởng
phòng Văn hóa và Thông tin