Trên địa bàn huyện Văn Bàn đã được
UBND tỉnh công nhận hoàn thành xây dựng nông thôn mới 04 xã gồm các xã: Văn
Sơn; Hòa Mạc; Khánh Yên Thượng; Khánh Yên Trung. Hiện nay 04 xã vẫn đang tiếp
tục duy trì và thực hiện các chỉ tiêu đã đạt được theo Bộ tiêu chí, đồng thời
tiếp tục thực hiện các nội dung mới của tiêu chí trong Bộ tiêu chí quốc gia về
xây dựng NTM. Trong năm 2017 huyện Văn Bàn có 02 xã đăng ký về đích NTM
là xã Khánh Yên Hạ và xã Võ Lao, trong đó Tiêu chí 17 của xã Khánh Yên Hạ đã
được thẩm định và công nhận năm 2016, hiện nay vẫn đang duy trì và giữ ổn định.
Xã Võ Lao đăng ký hoàn thành NTM trong năm 2017, hiện tại xã đã đạt được 4 chỉ
tiêu nhỏ trong Tiêu chí 17, các chỉ tiêu còn lại BCĐ xã đang đẩy nhanh tiến độ
thực hiện, bố trí kinh phí đầu tư hạ tầng cơ sở như xây dựng nghĩa trang nhân
dân, bãi rác thải tập trung, nâng cấp sửa chữa hệ thống rãnh thoát nước tại thị
tứ Võ Lao, hỗ trợ xây dựng lò đốt giác cho nhóm hộ gia đình ở 29 thôn.
Kết quả
thực hiện tiêu chí 17 trên địa bàn huyện cụ thể:
Nội dung 17.1. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy
định: Trên địa bàn
huyện Văn Bàn có 13/22 xã đã hoàn thành chỉ tiêu này, đạt 59,09% so với Bộ tiêu
chí quốc gia về XDNTM. Còn lại 9/22 xã chưa hoàn thành chỉ tiêu này chiếm tỷ lệ
40,90%, nhưng tỷ lệ % duy trì và phấn đấu khá cao đạt từ 72,2% đến 88,7%.
Nội dung 17.2. Tỷ lệ
cơ sở sản xuất - kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề bảo đảm quy định về
bảo vệ môi trường: Toàn
huyện có 6/22 xã đã hoàn thành chỉ tiêu này, đạt 27,27% so với Bộ tiêu chí quốc
gia trong XD NTM. Còn lại 16/22 xã chưa hoàn thành chỉ tiêu này chiếm tỷ lệ
72,72%, nhưng tỷ lệ % duy trì và phấn đấu khá cao đạt từ 61,3% đến 98,5%.
Nội dung 17.3. Xây
dựng cảnh quan môi trường xanh - sạch - đẹp, an toàn: Toàn huyện có 12/22 xã đạt chỉ tiêu
chiếm 54,54%. Các xã đạt chỉ tiêu này chủ yếu là các xã đã đạt chuẩn nông thôn
mới và các xã có quy hoạch trung tâm xã, cụm xã. 12 xã còn lại đang duy trì và
phấn đấu hoàn thành.
Nội dung 17.4. Mai
táng phù hợp với quy định và theo quy hoạch: Có 22/22 xã đã có quy hoạch địa điểm đất để xây dựng
nghĩa trang, nghĩa địa lâu dài để phục vụ nhân dân. Tuy nhiên hiện tại đã có
10/22 xã đã đầu tư xây dựng nghĩa trang nhân dân và đưa vào sử dụng, có quy chế
quản lý nghĩa trang, nhưng do địa hình đồi núi chia cắt, tập quán, thói quen
mai táng của một số đồng bào dân tộc thiểu số còn lạc hậu, đây là dào cản rất
lớn trong chỉ đạo thực hiện chỉ tiêu này. Tỷ lệ % các xã đạt chỉ tiêu này:
45,45%.
Nội dung 17.5. Chất
thải rắn trên địa bàn và nước thải khu dân cư tập trung, cơ sở sản xuất – kinh
doanh được thu gom, xử lý: Toàn huyện hiện có 5/22 xã đạt chỉ tiêu này chiếm tỷ lệ 22,72%, chủ yếu
tập trung ở các xã đã hoàn thành NTM và các xã đăng ký về đích trong năm nay.
Còn lại 17/22 xã vẫn đang tiếp tục quy hoạch khu bãi chứa chất thải rắn, đầu tư
hạ tầng cơ sở để xử lý chất thải rắn, nước thải đáp ứng được theo yêu cầu của
Bộ tiêu chí đề ra.
Nội dung 17.6. Tỷ lệ
hộ có nhà tiêu, nhà tắm, bể nước sinh hoạt hợp vệ sinh và đảm bảo 3 sạch đạt
100% hộ trên địa bàn: Toàn huyện có 12/22 xã đạt chỉ tiêu này chiếm 54,54%. Các xã còn lại
chưa đạt, thậm chí có một số xã chỉ tiêu này còn ở mức rất thấp như xã Nậm
Chày, Thẳm Dương, Nậm Mả. Nguyên nhân là đời sống kinh tế của các hộ gia đình
rất khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã còn cao, bà con đồng bào dân tộc thiểu số
chưa quen với việc xây dựng và sử dụng các công trình phụ tại gia đình.
Nội dung 17.7. Tỷ lệ
hộ chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường: Chỉ tiêu này các xã trong huyện đạt
rất thấp 5/22 xã chiếm tỷ lệ 22,72%. Các xã còn lại chưa đạt nhưng tỷ lệ duy
trì cũng đang ở mức thấp, có nhiều xã đang ở mức rất thấp. Đây chính là nguyên
nhân chính dẫn đến hiện tượng đàn đại gia súc bị chết rét trong mùa đông có rét
đậm, rét hại.
Nội dung 17.8. Tỷ lệ hộ
gia đình và cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy định về đảm
bảo an toàn thực phẩm: Tỷ lệ % các xã đạt tiêu chí này: 22,72% ( 05/22 xã đạt). Còn lại 17/22
xã chưa đạt nhưng ở mức cao từ 71% - 96% do nhân dân nhận thức tốt về vệ sinh
an toàn thực phẩm, ngộ độc thực phẩm, hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng.
Vương Thị Thảo - Văn phòng
HĐND&UBND huyện