Cuộc cách mạng công nghiệp của thế giới đã diễn
ra 4 cuộc cách mạng lớn: Cuộc cách mạng đầu tiên đó là các cuộc cách mạng công
nghiệp bắt đầu vào khoảng năm 1784. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất này là việc sử dụng năng lượng nước, hơi nước và cơ giới hóa sản xuất.
Cuộc cách mạng công nghiệp này được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng là việc
James Watt phát minh ra động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm
ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh (đặc trưng là cơ
khí hóa với máy chạy bằng thủy lực và phát minh ra động cơ hơi nước. Phát minh
này của James Watt công bố năm 1775) đến châu Âu và Hoa Kỳ. Cuộc cách mạng công
nghiệp đầu tiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại - kỷ nguyên
sản xuất cơ khí, cơ giới hóa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thay
thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại nông nghiệp (kéo dài
17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp (lao động thủ công), sức nước,
sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực
là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng mới là sắt và
than đá. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, tạo nên
tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. Đây là giai đoạn
quá độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất cơ giới trên cơ sở khoa học.
Tiền đề kinh tế chính của bước quá độ này là sự chiến thắng của các quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, còn tiền đề khoa học là việc tạo ra nền khoa học mới, có
tính thực nghiệm nhờ cuộc cách mạng trong khoa học vào thế kỷ XVII.
Cuộc cách mạng thứ hai là từ năm 1871 đến năm
1914 đặc trưng là động cơ điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép và sản xuất
trên cơ sở điện cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa và khởi nguồn từ Mỹ. việc
sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên
quy mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển
của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt) là sản xuất và
tiêu dùng hàng loạt. Cuộc CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền đề mới và cơ sở
vững chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa. Cuộc cách này đã mở
ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây
chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa thậm chí còn lan rộng hơn tới Nhật Bản sau thời
Minh Trị Duy Tân, và thâm nhập sâu vào nước Nga, nước đã phát triển bùng nổ vào
đầu Thế Chiến I. Về tư tưởng kinh tế - xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra những
tiền đề thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở quy mô thế giới.
Cuộc
cách mạng thứ ba từ năm 1969, với sự ra đời của công nghệ thông tin sử dụng điện
tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Được xúc tác bởi chất bán dẫn,
siêu máy tính, laptop, internet. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc
cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của
chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và
Internet (thập niên 1990). Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các
tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít
hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng.
Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi cơ cấu của nền sản xuất xã hội cũng như những
mối tương quan giữa các khu vực I (nông – lâm – thủy sản), II (công nghiệp và
xây dựng) và III (dịch vụ) của nền sản xuất xã hội. Làm thay đổi tận gốc các lực
lượng sản xuất, cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tác động tới mọi
lĩnh vực đời sống xã hội loài người, nhất là ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển vì đây chính là nơi phát sinh của cuộc cách mạng này.
Cuộc
cách mạng thứ tư đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có trong lịch
sử từ năm 2011 đặc trưng là điều khiển hệ và Robot; các hệ thống liên kết thế
giới thực và thế giới ảo do sự đột phá của khoa học công nghệ dựa trên nền tảng
công nghệ số tích hợp công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức
sản xuất; tuy nhiên cùng với nó là nguy cơ an ninh phi truyền thống đòi hỏi tìm
ra các giải pháp công nghệ, tối ưu hóa quá trình sản xuất theo hướng bền vững
hơn. Đặc biệt và là đòn bảy chính là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, Robot, công nghệ kết nối vạn vật
(IoT) và Internet các dịch vụ (IoS). Đặc trưng của cuộc cách mạng 4.0 là các hệ
thống sản xuất thực - ảo (Cyber Physical systems –CPS), lần đầu tiên được Dr.
Jame Truchat, giám đốc điều hành của National Instrument đưa ra vào năm 2006,
trong đó thiết bị thông minh làm việc với nhau qua mạng không dây hoặc qua “đám
mây”. Năm 2012 trong kế hoạch hành động chiến lược CNC được chính phủ Đức thông
qua năm 2012 với tính chất như: Xu hướng hiện đại và tự động hóa; Trao đổi dữ
liệu trong công nghệ sản xuất; IoT (Internet of Thing) Internet kết nối vạn vật;
Điện toán đám mây; Xuất hiện “nhà máy thông minh”, “nhà máy số”.
Cuộc
cách mạng lần thứ tư (4.0) được thể hiện rõ trên 15 lĩnh vực như: Cơ sở dữ liệu
tập trung (Big Data); Thành phố thông minh (Smart Cities); Tiền ảo
(Blockchain/Bitcoin); Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence); Năng lượng
tái tạo / công nghệ sạch (Renewable Energy/Clean – tech); Công nghệ màng mỏng
(FinTech); Thương mại điện tử (E-Commerce); Người máy (Robotics); Công nghệ in
3D (3D Printing); Kết nối thực ảo (Virtual/Augmented Reality); Các nền kinh tế
chia sẻ (Shared Economies); Internet kết nối vạn vật (IoThings); Công nghệ
Nano/Vật liệu 2D (Nanotechnology/ 2D Materials); Công nghệ sinh học/ biến đổi
gen và cách mạng công nghiệp; cuối cùng là lĩnh vực Khử muối lọc nước ngọt từ
nước biển và quản lý chất thải rắn (Desalination and Enhanced Waste Mangement).
Có
thể thấy quy mô tốc độ phát triển chưa từng có trong lịch sử, tốc độ phát triển
theo cấp số nhân, tác động to lớn về kinh tế, môi trường sinh thái. Tiêu chí tốc
độ lan truyền của công nghệ được sử dụng đạt ngưỡng 50 triệu người.
Minh
Tuấn - Văn phòng HĐND&UBND